Cơ sở Tp. HCM: Số 57 (hẻm 59) Sương Nguyệt Ánh, P. Bến Thành, Q.1, Tp. HCM
Cơ sở Tp. HCM: Số 57 (hẻm 59) Sương Nguyệt Ánh, P. Bến Thành, Q.1, Tp. HCM
“An sinh xã hội (ASXH) là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong. Cung cấp chăm sóc y tế và trợ giúp cho các gia đình có nạn nhân là trẻ em”_Tổ chức Lao động quốc tế ILO.[1]
Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam vẫn tiếp tục đẩy mạnh nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã nhấn mạnh: phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đồng thời “thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ASXH trong từng bước và từng chính sách phát triển”.[2] Đại hội Đảng XII đã đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và nhìn lại 30 năm đổi mới. Theo đó, ASXH được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được đảm bảo, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Nội dung bài viết này chủ yếu đề cập đến những thành tựu, mặt hạn chế của hệ thống ASXH ở nước ta sau 30 năm đổi mới, cũng như những thách thức mà chúng ta phải vượt qua trong thời gian tới để hoàn thiện hệ thống ASXH một cách tốt hơn.
1. Quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về ASXH
Từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản về chính sách ASXH nhằm phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro thông qua các hoạt động bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội và trợ giúp xã hội. Nội dung của các văn bản về ASXH cũng ngày càng được mở rộng, và cho đến nay, nó bao gồm cả sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho các cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm và mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, những nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch họa, …[3] Từ nhiều năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới (năm 1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát triển bền vững.
Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã diễn ra với chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, mở ra thời kỳ mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong bối cảnh đất nước còn nhiều vấn đề cấp bách phải giải quyết, bảo đảm ASXH vẫn được Đảng xác định là nhiệm vụ thường xuyên và có tầm quan trọng hàng đầu. Quan điểm cốt lõi của Đảng là thực hiện tốt ASXH giúp tạo ra tiền đề quan trọng cho sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần củng cố những thành quả trong đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, thường xuyên của nhân dân, tạo lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới. Việc đảm bảo tốt ASXH sẽ góp phần tạo ra sự thống nhất giữa đổi mới về kinh tế với đổi mới chính trị, xã hội, tạo sự cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội ngay trong những bước đi đầu tiên của sự nghiệp đổi mới đất nước[4].
Có thể thấy rằng, quan điểm trên đã cho chúng ta thấy được sự chuyển hướng và đổi mới tích cực trong đường lối lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực ASXH. Chính những thành công trong đảm bảo ASXH đã góp phần tạo ra sự ổn định trong xã hội, đưa sự nghiệp đổi mới vượt qua giai đoạn khó khăn nhất để có được những thành tựu vững chắc trong thời kỳ tiếp theo.
Cùng với những thành tựu trong thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội, nhận thức về ASXH cũng tiến thêm một bước mới, khi tại các kỳ Đại hội VII và VIII, Đảng ta đã xác định đảm bảo ASXH là vì con người và là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu đảm bảo ASXH thống nhất với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đều nhằm phát huy sức mạnh nhân tố con người, phục vụ con người. Thực hiện ASXH góp phần “tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, “tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”[5].
Đến Đại hội X, khi tiếp tục đưa chủ trương đảm bảo ASXH thành định hướng phát triển bền vững đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”, “càng đi vào phát triển kinh tế thị trường, càng phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục văn hoá, chăm sóc sức khoẻ nhân dân”[6]. Đặc biệt, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”, Nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vấn đề xã hội, đã đặt ra yêu cầu: “Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”; coi bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ.[7]
Tiếp đến kỳ Đại hội XII gần đây nhất, Đảng ta vẫn coi trọng vấn đề ASXH, coi ASXH là mục tiêu phát triển của xã hội. Bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Phạm Thị Hải Chuyền tại Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: “Bảo đảm ASXH là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo đất nước, là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vúng ổn định chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh”[8].
Có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề ASXH và coi đó là mục tiêu phát triển. Đảng đã đặt các chủ trương đảm bảo ASXH là bộ phận không thể tách rời của toàn bộ hệ thống chủ trương, quan điểm phát triển kinh tế - xã hội trong tiến trình đổi mới đất nước. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi việc thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển.
2. Một số thành tựu chủ yếu trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam và những thách thức đặt ra đối với quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống ASXH ở nước ta hiện nay
Thực hiện đường lối Đổi mới, trong 30 năm qua, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống ASXH ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với diện bao phủ không ngừng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. ASXH đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo và phát triển theo hướng bền vững hơn.
2.1. Một số kết quả tích cực
Cho đến nay công tác bảo đảm ASXH đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao. Theo báo cáo sơ bộ, tổng kinh phí dành cho hoạt động ASXH và giảm nghèo trong năm 2015 là 3967 tỷ đồng, bao gồm: 2179 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách; 1021 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 767 tỷ đồng cứu đói, cứu trợ xã hội khác. Số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn dưới 5% (năm 2015) tính theo chuẩn nghèo 2011 – 201. Như vậy, Việt nam đã hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu; giảm một nửa tỷ lệ hộ nghèo vào năm 2015; chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2014 là 0,666 xếp thứ 116/187 quốc gia và vùng lãnh thổ, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới[9]. Trong phần này, chúng tôi điểm qua một số thành tựu nổi bật trong hệ thống ASXH của nước ta ở những mặt sau:
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định và triển khai nhiều chính sách ASXH quan trọng, huy động được nhiều nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp cho các đối tượng (người dân tộc thiểu số, người nghèo, người già cô đơn, trẻ em và các đối tượng dễ bị tổn thương) vươn lên trong cuộc sống. Các chính sách và giải pháp bảo đảm ASXH được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện:
Ø Giúp các đối tượng thụ hưởng tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý, nhà ở,...
Ø Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm thị trường, tín dụng, việc làm;
Ø Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các địa phương phục vụ người dân tốt hơn.
Hệ thống pháp luật về ASXH ngày càng hoàn thiện hơn, đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định quyền ASXH cơ bản cho người dân. Cụ thể, nó được thể hiện ở Điều 34: “Công dân có quyền được bảo đảm ASXH”; Điều 59: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống ASXH”). Bộ Luật Lao động sửa đổi (năm 2012) tiếp tục phát triển thị trường lao động, tăng cường điều kiện hoạt động của các đối tác tham gia thị trường lao động (Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức môi giới trung gian và người lao động); tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế trên thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Luật Việc làm (ban hành lần đầu, năm 2013) lần đầu tiên Việt Nam có Bộ Luật hướng đến khu vực kinh tế phi chính thức; tiếp tục mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đều bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp). Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi (năm 2013) chuyển từ bao phủ toàn dân sang bảo hiểm y tế bắt buộc đối với toàn bộ dân cư; mở rộng sự tham gia của người dân vào bảo hiểm y tế (hoàn thiện chế độ đóng, chế độ hưởng và điều kiện hưởng bảo hiểm y tế); mở rộng đối tượng được Nhà nước bảo hộ một phần và toàn phần để tham gia bảo hiểm y tế. Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi (năm 2014) mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động làm việc có hợp đồng từ 1 tháng trở lên; tăng cường chế tài đối với việc trốn đóng bảo hiểm xã hội; hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; đề xuất giải pháp khuyến khích người lao động khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội; hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội[10].
*Hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH)
BHXH Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn đổi mới và hoàn thiện. Kết quả đạt được là đối tượng tham gia tăng lên khá nhanh nhất là ở khu vực kinh tế phi chính thức. Quỹ BHXH được hình thành độc lập; ngoài BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện cũng chính thức được triển khai từ ngày 1/1/2008. Hệ thống BHXH được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Nếu trước đổi mới, phạm vi đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chỉ bao gồm người lao động trong khu vực nhà nước, thì sau đổi mới đã từng bước được mở rộng ra các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhau có sử dụng từ 10 lao động trở lên. BHXH được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế), bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
Kết quả rõ nhất của chính sách và tổ chức triển khai chính sách BHXH là đối tượng tham gia ngày càng tăng, đối tượng được bảo vệ ngày càng rộng, nhất là từ khi Luật bảo hiểm xã hội có hiệu lực. Từ đó đã góp phần bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi tham gia BHXH, góp phần bảo đảm ASXH. Cụ thể:
Bảng 1: Đối tượng tham gia BHXH, bảo hiểm thất nghiệp và số người được hưởng chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc
1. Số lao động tham gia BHXH bắt buộc
2. Số lao động tham gia BHXH tự nguyện
3. Số lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp
4. Số lượt người hưởng chế độ ốm đau
5. Số người hưởng chế độ thai sản
6. Số người được trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp hàng tháng
7. Số người được trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp 1 lần
8. Số người hưởng lương hưu hàng tháng
9. Số người hưởng tiền tuất hàng tháng
Nguồn: Nguyễn Văn Định (2012). “Hệ thống bảo hiểm xã hội - chủ trương, chính sách, mô hình, kết quả thực hiện và những vấn đề đặt ra từ nay đến năm 2020” trong cuốn sách “An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020” do PGS.TS. Vũ Văn Phúc chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, HN. Tr 240.
Đến cuối năm 2015, cả nước có trên 12,07 triệu người tham gia Bảo hiểm xã hội, chiếm trên 23% lực lượng lao động (trong đó, tham gia BHXH bắt buộc trên 11,85 triệu người, tăng trên 2,25 triệu người so với cuối năm 2010; tham gia BHXH tự nguyện trên 223 nghìn người, tăng trên 148 nghìn người so với cuối năm 2010). Có trên 9,9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tăng 3,6 triệu người so với cuối năm 2010. Chính sách Bảo hiểm thất nghiệp đã phát huy tác dụng trong bối cảnh kinh tế khó khăn vừa qua: từ tháng 01/2011 đến cuối năm 2015 có trên 2,07 triệu lượt người được hưởng trợ cấp thất nghiệp; trên 1,7 triệu lượt người tư vấn, giới thiệu việc làm; trên 122 nghìn lượt người được hỗ trợ học nghề...[11]
Hệ thống chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện. Chính sách đối với người có công của Việt Nam gồm các đối tượng như: người hoạt động cách mạng; người có công hưởng trợ cấp hàng tháng (không kể người hoạt động cách mạng), gồm thương binh, bệnh binh, người có công giúp đỡ cách mạng, người hưởng chính sách như thương binh; thân nhân của người có công (Bà mẹ Việt Nam anh hùng, …); người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của họ; thanh niên xung phong và các đối tượng khác như hoạt động kháng chiến, thân nhân của người có công với cách mạng chết trước ngày 1/1/1995. Số lượng người hưởng chính sách đối với người có công có xu hướng giảm xuống từ 2.877,4 người năm 2001 xuống còn 1.597,7 người năm 2007. Kinh phí chi trả chiếm khoảng 0,72% đến 0,92% GDP, hoặc 2,3% đến 2,7% chi phí ngân sách nhà nước[12].
Để đảm bảo đời sống đối với người có công, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách ưu đãi, chú ý đảm bảo đời sống cho người có công một cách tốt nhất. Trong Nghị Quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng về ưu đãi đối với người có công đã đề ra mục tiêu: “… bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương”[13].
Tổng kinh phí thực hiện chính sách đối với người có công tăng từ 21 ngàn tỷ năm 2011 lên trên 32 ngàn tỷ đồng năm 2015. Bên cạnh đó, các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, người có công” được phát triển sâu rộng ở tất cả các địa phương, qua đó đã huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội, cộng đồng cùng nhà nước chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của người có công với cách mạng. Đời sống người có công không ngừng được cải thiện, đến cuối năm 2015 có 98,5% hộ gia đình chính sách người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình hộ dân cư nơi cư trú, tăng thêm 8,5% số hộ so với năm 2010[14].
Trợ giúp xã hội, bao gồm trợ giúp thường xuyên và trợ giúp đột xuất là trụ cột quan trọng của hệ thống ASXH Việt Nam, được Nhà nước rất quan tâm và đã ban hành nhiều văn bản, chính sách trợ giúp kịp thời. Nhờ vậy, chính sách trợ giúp xã hội cả thường xuyên và đột xuất được thực hiện rộng hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Đối với trợ giúp xã hội thường xuyên, điều kiện để được hưởng chính sách trợ giúp xã hội từng bước được cải tiến theo hướng mở rộng đối tượng được hưởng nên số đối tượng gia tăng nhanh, từ 416 nghìn đối tượng vào năm 2005 lên trên 1,25 triệu đối tượng vào năm 2009 và 1,6 triệu năm 2011[15].
Bên cạnh đó, chính sách trợ giúp các đối tượng đã được mở rộng không chỉ giới hạn ở những hộ nghèo. Chiến lược ASXH mở rộng sự trợ giúp thường xuyên đến 10 nhóm yếu thế có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Nhiều mô hình trợ giúp xã hội được xây dựng phù hợp với nhu cầu của các nhóm đối tượng, vốn đa dạng trên thực tế và khác nhau giữa các địa phương.
Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỷ đồng cho hơn 180.000 người năm 2001 tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người năm 2010[16].
Song song với chính sách trợ giúp thường xuyên, công tác trợ giúp đột xuất cũng đã huy động được phong trào tương thân, tương ái của mọi tầng lớp nhân dân, của các tổ chức quần chúng, các doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhờ đó đã đóng góp được một phần đáng kể cho những thiếu hụt nguồn lực từ ngân sách nhà nước.
Nhìn chung, công tác ASXH của nước ta trong vòng 30 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Cùng với những thành tựu đổi mới kinh tế thị trường định hướng XHCN, nước ta đã có nỗ lực lớn đầu tư nguồn lực và đổi mới cơ chế chính sách về thực hiện công tác ASXH, chăm lo cải thiện cuộc sống của người dân. Cụ thể, bảo đảm ASXH gắn với sự phát triển xã hội, với thành tựu phát triển kinh tế trong bối cảnh kinh tế thị trường. Mặc dù nguồn lực của Nhà nước còn hạn hẹp nhưng Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác bảo đảm ASXH, đặt nhiệm vụ phát triển dân sinh trong mối tương quan hài hòa và gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế, giữa đầu tư phát triển kinh tế với đầu tư bảo đảm phúc lợi xã hội và ASXH, quan tâm đầu tư cho vùng núi, đồng bào dân tộc thiểu số, các huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn, xã bãi ngang ven biển, hải đảo,… Theo đó, nhiều chính sách về ASXH được ban hành. Từ đó, hoạt động tín dụng chính sách xã hội đã được triển khai thực hiện rộng rãi, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu giảm nghèo bền vững của quốc gia.
Cho đến nay, công tác đảm bảo ASXH ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém. Nhận thức về ASXH chưa thật sự thống nhất và đầy đủ. Trên thực tế, nhiều vấn đề vẫn chỉ dừng lại ở tư tưởng chính sách, chưa được quán triệt một cách sâu sắc trong hoạch định chiến lược cũng như từng chính sách ASXH cụ thể. Bài viết “Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng phát triển” của tác giả Nguyễn Hữu Dũng đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh số 26/2010 có đoạn: “Chính sách ASXH được ban hành rất nhiều (hơn 50 loại chính sách), nhưng thiếu tính hệ thống, chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau. Hệ thống cơ chế, chính sách và luật pháp ASXH tuy được bổ sung, sửa đổi nhưng chưa theo kịp thực tế luôn biến đổi và còn thiếu cụ thể; nhiều quy định không sát với thực tế nên khó thực hiện, đồng thời nhiều quy định đến nay không còn phù hợp hoặc chưa mở rộng đến toàn thể dân cư, nhất là dân cư vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa; chưa bổ sung kịp thời các chính sách mới để đảm bảo ổn định cuộc sống và an sinh cho người dân”.
Bên cạnh đó, công tác tạo việc làm chưa bền vững, tỷ lệ thất nghiệp khu vực nông thôn có xu hướng gia tăng (từ 1,05% năm 2000 lên 2,27% năm 2011), đặc biệt trong nhóm thanh niên (tuổi từ 15 đến 24) lên tới 6,8% chiếm 58% tổng số lao động thất nghiệp, có trên 7,7% lao động nông thôn thiếu việc làm. Chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm, năm 2010 vẫn còn 50% lao động nông nghiệp (vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn trên 92% lao động nông nghiệp)[17].
Tình trạng giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo cao, các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã bãi ven biển, hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ nghèo còn rất cao. Theo báo cáo trước ban chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo bền vững ngày 20/2/2014, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Phạm Thị Hải Chuyền thừa nhận rằng: kết quả giảm chưa đồng đều, chưa vững chắc. Địa bàn các xã nghèo miền núi, vùng dân tộc thiểu số tỷ lệ hộ nghèo còn cao, chiếm 50% trong tổng số hộ nghèo cả nước. Đặc biệt, tỷ lệ hộ tái, phát sinh nghèo hàng năm còn cao. “Bình quân cứ 3 hộ thoát nghèo thì có một hộ tái nghèo, phát sinh nghèo”, tỷ lệ này bao gồm cả số hộ tái nghèo và phát sinh nghèo do hậu quả thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, do tách hộ[18].
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp, vẫn xảy ra không ít tiêu cực, phiền hà. Một số chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý; chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Năm 2011, số lượng tham gia bảo hiểm xã hội mới bằng 20% lực lượng lao động. Bảo hiểm bắt buộc mới bao phủ 70% lao động thuộc diện bắt buộc tham gia, nguy cơ mất cân đối quỹ bảo hiểm xã hội cao; bảo hiểm tự nguyện mới thu hút 0,22% số lao động thuộc diện tham gia. Phần lớn lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp, khu vực phi chính thức chưa tham gia do thu nhập thấp, điều kiện tham gia bị hạn chế; chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa bắt buộc đối với doanh nghiệp nhỏ dưới 10 lao động[19].
Nguồn lực để thực hiện ASXH còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Diện được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên còn hạn hẹp, mức chuẩn trợ cấp thấp; xã hội hóa công tác chăm sóc người yếu thế chưa phát huy hết tiềm năng của cộng đồng và xã hội. Tỷ lệ bao phủ của chính sách hỗ trợ cũng như mức trợ cấp còn thấp, đặc biệt cho các đối tượng trẻ em, người khuyết tật nặng, người cao tuổi. Công tác xác định đối tượng và chi trả còn nhiều bất cập, chưa tách bạch rõ nhiệm vụ xác định đối tượng và chi trả. Phạm vi hỗ trợ rủi ro đột xuất còn hẹp, mức hỗ trợ chưa bù đắp, khắc phục được thiệt hại.
Một hạn chế nữa cần khắc phục đó là chất lượng cung cấp các dịch vụ ASXH, đặc biệt là dịch vụ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự gia tăng mức sống của dân cư. Theo Bộ trưởng Bộ Y tế, Nguyễn Thị Kim Tiến phát biểu trong Hội nghị “Tăng cường y tế cơ sở cho chăm sóc sức khỏe (CSSK) ban đầu, hướng tới bao phủ CSSK cho toàn dân”: Chất lượng dịch vụ y tế cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của người dân, dẫn đến tình trạng vượt lên tuyến trên gây quá tải các bệnh viện tuyến cuối. Các mô hình quản lý bệnh tật, chăm sóc bệnh tật tại cộng đồng, gia đình chưa được đầu tư trong khi xu hướng già hóa dân số[20]. Mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân chưa đạt được như mong muốn: tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi vẫn còn cao, đặc biệt đối với trẻ em nghèo vùng dân tộc thiểu số. Năm 2011, mới có 46% xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 33% dân số chưa tham gia bảo hiểm y tế[21].
Có thể thấy rằng, những hạn chế nêu trên đã đặt hệ thống ASXH ở nước ta trước nhiều thách thức lớn:
Thứ nhất, xã hội càng phát triển, quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường càng mạnh mẽ và hội nhập càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, thì rủi ro xã hội càng nhiều. Do vậy, nhu cầu đảm bảo ASXH càng đa dạng, phong phú và đối tượng ASXH tăng nhanh, đang mâu thuẫn với hệ thống ASXH hiện hành còn nhiều bất cập, khả năng mở rộng phạm vi bao phủ và mức trợ cấp còn thấp nên năng lực chống đỡ các rủi ro, biến cố của người dân chưa cao và hiệu quả.
Thứ hai, việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách, luật pháp về ASXH chưa nghiêm khắc; vấn đề cải cách về ASXH chưa đạt được nhiều kết quả khả quan, còn nhiều rào cản, gây phiền hà, người dân khó tiếp cận; hiện tượng lãng phí, thất thoát, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi. Hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về ASXH và áp dụng công nghệ thông tin quản lý lĩnh vực ASXH còn yếu kém, nhất là chưa có mã số ASXH cá nhân.
Thứ ba, xu thế già hóa dân số ngày càng gia tăng đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống ASXH hiện hành và trong tương lai, sẽ tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế, bảo hiểm xã hội, các dịch vụ chăm sóc xã hội cho người cao tuổi. Theo dự báo đến năm 2024, số người cao tuổi của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 12,8 triệu người, chiếm 13% tổng dân số cả nước[22]. Trong khi đó, nguồn lực tài chính đảm bảo cho vấn đề chi trả lương hưu ngày càng cạn kiệt.
Thứ tư, mức đóng, mức hưởng bảo hiểm xã hội còn chưa hợp lý, chưa bảo đảm cuộc sống cho các đối tượng thụ hưởng. Mức độ bền vững về tài chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách ASXH còn nhiều bất cập.
Thứ năm, sự phân hóa nhanh, mạnh trong nền kinh tế thị trường, đã làm cho các nhóm xã hội yếu thế ngày càng yếu thế hơn và dễ bị tổn thương hơn do hạn chế về khả năng cạnh tranh, khả năng phòng ngừa rủi ro trên thương trường. Các dòng di chuyển việc làm, di chuyển lao động diễn ra với cường độ ngày càng mạnh, tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm quyền và cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách an sinh của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương.
Trong thực tế, vấn đề ASXH còn tồn tại nhiều thách thức và bất cập khác nữa. Trên đây là những thách thức mà chúng tôi coi là cơ bản nhất cần khắc phục để hoàn thiện tốt hơn hệ thống ASXH của nước ta trong thời gian tới. Có thể các nhóm đối tượng của ASXH sẽ ngày càng đa dạng, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách ASXH đa tầng, đa lớp, linh hoạt và đủ khả năng thực hiện những mục tiêu an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
3. Một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam hiện nay
Việc bảo đảm ASXH và phúc lợi xã hội ngày càng tốt hơn là nội dung chủ yếu trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội của nước ta giai đoạn 2011 - 2020. Trong phần này, chúng tôi tổng hợp một số giải pháp chủ yếu của các tác giả, nhà nghiên cứu, tổ chức nhằm hoàn thiện tốt hơn hệ thống ASXH ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
Trong bài viết “An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đăng trên Trang điện tử Tạp chí Cộng sản ngày 16/3/2012, tác giả Vũ Văn Phúc đã đưa ra 8 giải pháp cơ bản để hoàn thiện hệ thống ASXH ở nước ta gồm[23]:
1. Thống nhất và từng bước nâng cao mức độ ASXH trong toàn xã hội.
2. Ưu tiên phát triển sự nghiệp ASXH nông thôn và cho người lao động khu vực ngoài nhà nước.
3. Xây dựng hệ thống bảo hiểm hưu trí nhiều tầng và nhiều trụ cột.
4. Cải cách đồng bộ, giải quyết các vấn đề bức xúc về y tế.
5. Tiếp tục thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững.
6. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ASXH đối với sự phát triển bền vững đất nước.
7. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ASXH một cách đồng bộ, đồng thời quyết liệt đưa các văn bản pháp luật vào cuộc sống.
8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là của hệ thống chính trị cấp cơ sở đối với công tác đảm bảo ASXH.
Tác giả Phạm Tất Thắng trong bài viết của mình “Một số đề xuất góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội khu vực nông thôn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020” trong cuốn “An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020” do PGS.TS. Vũ Văn Phúc chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội - 2012 có đưa ra 3 nhóm giải pháp chính trong đó có một nhóm giải pháp trùng với giải pháp số 8 của tác giả Vũ Văn Phúc nêu trên. Hai nhóm giải pháp còn lại là:
1. Nâng cao năng lực hoạch định chính sách ASXH của hệ thống chính quyền các cấp.
2. Tiếp tục đổi mới phân phối lại thu nhập quốc dân: Thứ nhất, đổi mới quy định về tiền công đối với nghề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn hướng tới công bằng so với tiền công các nghề khác. Thứ hai, xem xét lại các văn bản để bảo đảm sự công bằng trong đầu tư các công trình hạ tầng kinh tế, kỹ thuật giữa nông thôn miền núi với nông thôn đồng bằng và đô thị. Thứ ba, xem xét lại việc quy định tiền lương tối thiểu của khu vực nông thôn và miền núi thấp hơn vùng đồng bằng, thành phố. Thứ tư, xem xét lại căn cứ để đảm bảo sự công bằng trong cấp bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương, từ cơ chế, “cấp bổ sung cân đối ngân sách” và “cấp bổ sung có mục tiêu” về ASXH.
Cùng đưa ra 8 nhóm giải pháp như tác giả Vũ Văn Phúc, song tác giả Mai Ngọc Cường trong cuốn sách của mình “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2009 lại nhấn mạnh đến việc lựa chọn các chương trình ưu tiên trong quá trình xây dựng và hoàn thiện mô hình tổng về ASXH ở Việt Nam. Theo tác giả, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ASXH; tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH hay nâng cao nhận thức của xã hội về ASXH… chúng ta còn phải hoàn thiện cơ chế tài chính cho ASXH, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực thi chính sách ASXH, cũng như phối hợp xây dựng, hoàn thiện và thực hiện chính sách ASXH với xây dựng, hoàn thiện và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội khác.
Tạp chí Xã hội học số 2 (118), 2012 có đăng bài viết “An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Phạm Xuân Nam. Trong bài viết này, tác giả đưa ra 5 giải pháp hoàn thiện hệ thống ASXH của nước ta mà chúng tôi cho rằng vô cùng thiết thực, nhất là với giai đoạn hiện nay:
1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc và vận dụng tốt hơn quan điểm kết hợp hài hòa giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với bảo đảm ASXH ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
2. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm ASXH phải triệt để khắc phục những tàn dư của chế độ phân phối theo kiểu bao cấp, bình quân, cào bằng.
3. Đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế, phát triển xã hội gắn với mở rộng việc làm.
4. Thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo bền vững.
5. Tiếp tục mở rộng và ngày càng hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH nhiều tầng nấc. Hệ thống đó bao gồm: chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách bảo hiểm y tế, chính sách ưu đãi xã hội, chính sách trợ cấp xã hội, chính sách cứu trợ xã hội, …
Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ ASXH giai đoạn 2012 - 2020, Nghị quyết số 15-NQ/TW cũng chỉ ra 2 nhóm giải pháp chính[24]:
Ø Tiếp thục hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Ø Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhìn chung, các giải pháp đều hướng vào các mặt như: thể chế (xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về ASXH); giảm nghèo bền vững; kết hợp xây dựng, hoàn thiện, thực hiện chính sách ASXH gắn liền với xây dựng, hoàn thiện và thực hiện chính sách kinh tế - xã hội khác; bảo đảm mức tối thiểu đối với một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân đặc biệt là người nghèo, vùng đồng bào dân tộc, thiểu số… Có thể nói, việc phát triển hệ thống ASXH là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và người dân, trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách và chương trình đảm bảo ASXH.
Nhìn chung lại, ASXH là lĩnh vực rộng lớn, luôn luôn biến động, vừa do Nhà nước nắm giữ, quản lý, điều phối, vừa được thực hiện bằng con đường thiện nguyện, xã hội hóa với cơ chế, chính sách ngày càng thông thoáng. Trải qua chặng đường 30 năm đổi mới và phát triển, chính sách ASXH của nước ta ngày càng thực tế hơn, đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của người dân, đặc biệt là những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nhóm yếu thế trong xã hội... Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc thực hiện các mục tiêu của Thiên niên kỷ, đặc biệt là giảm nghèo, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao, đời sống, thu nhập của người dân được cải thiện, chính trị, xã hội ổn định hơn. Các chính sách xã hội ngày càng gắn với đảm bảo các quyền cơ bản của người dân. Quyết tâm đổi mới đã tạo điều kiện cho các chính sách xã hội phát triển trên cả 3 nội dung cơ bản: Nâng cao năng lực vốn con người (thông qua tăng cường phúc lợi toàn dân), cải thiện môi trường hoạt động của con người (thông qua phát triển các chính sách chính sách lao động, việc làm, y tế, giáo dục, phát triển doanh nghiệp, hạ tầng cơ sở...) và bảo đảm an sinh xã hội (thông qua các chính sách hỗ trợ người yếu thế tham gia thị trường lao động, tăng cường bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội và giảm nghèo).
Mặt khác, trong một xã hội đang chuyển đổi như nước ta hiện nay, hệ thống ASXH là hết sức đa dạng. Do đó, Đảng lãnh đạo hệ thống ASXH theo hướng dân chủ hóa, có chủ trương phát hiện, khai thác mọi tiềm năng để phát triển hệ thống ASXH, động viên được tiềm năng của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân, tầng lớp nhân dân vào quá trình ASXH. Cần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong đóng góp xây dựng và thụ hưởng ASXH thể hiện ngay từ việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật trong thực tiễn điều hành, quản lý của cán bộ, viên chức các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân và nhân dân. Có như vậy, hệ thống ASXH của nước ta mới đồng bộ và hoàn thiện hơn, góp phần đưa nước ta thoát khỏi nghèo đói, đời sống của người dân được ấm no.
1. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2016). Bài phát biểu của bà Phạm Thị Hải Chuyền “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội” tại Đại hội Đảng lần thứ XII.
2. Dân Sinh (2016). “Tham luận của Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền tại Đại hội Đảng lần thứ XII”. Báo Điện tử Lao động và Xã hội. http://baodansinh.vn/tiep-tuc-hoan-thien-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-d25085.html ngày 23/1/2016.
3. Đặng Nguyên Anh (2013). “Bảo trợ xã hội ở Việt Nam: Khái niệm, thực trạng và giải pháp”. Tạp chí Xã hội học số 2 (122)/2013.
4. Mai Ngọc Cường ch.b (2009). “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”. Nxb Chính trị Quốc gia, HN.
5. Mai Ngọc Cường ch.b (2013). “Vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020”. Nxb Chính trị Quốc gia.
6. Nguyễn Hưng (2014). “Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhưng không vững chắc”. Trang điện tử Vnexpress.net. http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/ty-le-ho-ngheo-giam-nhung-khong-vung-chac-2954207.html ngày 20/2/2014.
7. Nguyễn Trọng Đàm (2015). “Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Trang điện tử Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. http://www.molisa.gov.vn/vi/Pages/chitiettin.aspx?IDNews=24185 ngày 11/12/2015.
8. Nguyễn Văn Chiều (2015). “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện an sinh xã hội trong thời kỳ đổi mới”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/lich-su-dang/doc-2930201510252146.html ngày 30/9/2015.
9. Phạm Xuân Nam (2012). “An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”. Tạp chí Xã hội học số 2 (118)/2012.
10. Tổng cục Thống Kê (2015). Tình hình Kinh tế Xã hội năm 2015.
11. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 (2011). Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
12. Vũ Văn Phúc (2012). “An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Trang điện tử Tạp chí Cộng sản. http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Thong-tin-ly-luan/2012/15184/An-sinh-xa-hoi-o-nuoc-ta-Mot-so-van-de-ly.aspx ngày 16/3/2012.
13. Vũ Văn Phúc ch.b (2012). “An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020”. Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[1] Mai Ngọc Cường ch.b (2013). “Vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020”. Nxb Chính trị Quốc gia. Tr 7.
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 (2011). Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, HN. Tr 227.
[3] Văn kiện Đảng về an sinh xã hội (2011). Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, HN. Tr 5.
[5] Nguyễn Văn Chiều (2015). Sđd.
[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006). Nxb Chính trị Quốc gia, HN.
[7] Phạm Thị Hải Chuyền (2016). “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội”. Báo cáo tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ 12.
[9] Tổng cục Thống Kê (2015). Tình hình Kinh tế Xã hội năm 2015.
[11] Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2016). Bài phát biểu của bà Phạm Thị Hải Chuyền “Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội” tại Đại hội Đảng lần thứ XII.
[12] Mai Ngọc Cường ch.b (2013). Sđd. Tr 86-87.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tr 301.
[14] Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2016). Sđd.
[15] Đặng Nguyên Anh (2013). “Bảo trợ xã hội ở Việt Nam: Khái niệm, thực trạng và giải pháp”. Tạp chí Xã hội học số 2 (122)/2013. Tr 3.
[16] Phạm Xuân Nam (2012). “An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”. Tạp chí Xã hội học số 2 (118)/2012. Tr 9-10.
[17] Vũ Văn Phúc ch.b (2012). “An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020”. Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, HN.
[19] Vũ Văn Phúc ch.b (2012). Sđd.
[21] Vũ Văn Phúc ch.b (2012). Sđd.
[22] Mai Ngọc Cường ch.b (2009). “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam”. Nxb Chính trị Quốc gia, HN. Tr 328.
[24] Mai Ngọc Cường ch.b (2013). Sđd. Tr 148.
Đây là học bổng của Bộ Ngoại giao Đài Loan dành cho các chuyên gia, học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến Đài Loan, các mối quan hệ xuyên eo biển, Trung Quốc đại lục, khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và các nghiên cứu khái quát về Trung Quốc phục vụ cho những nghiên cứu chuyên sâu tại các trường đại học hoặc viện nghiên cứu tại Đài Loan.
Taipei Economic and Cultural Office in New York
Address: 1 East 42nd Street, New York, NY 10017
Tel:212-317-7355; E-mail: [email protected]
The Center for Chinese Studies (CCS), National Central Library, Taipei, Taiwan
Address: 20 Chungshan S. Road, Taipei, Taiwan 10001, R.O.C.
Tel: +886-2-23147321; E-mail: [email protected]
Thông tin chi tiết vui lòng tham khảo file đính kèm (Taiwan Fellowship 2017)
Có thể nói nước Mỹ mặc dù có những Đại Học Y khoa nổi tiếng nhất thế giới, những giải Nobel Y học cũng nhiều vô kể, các bác sĩ ở Mỹ cũng được đào tạo công phu, tốn kém và tài giỏi nhất thế giới nhưng có một điều nghịch lý là trên cả nước vẫn có khoảng 46 triệu người dân không có bảo hiểm y tế.
Một thống kê của WHO cho biết là tình trạng sức khoẻ trung bình của người dân Mỹ đứng hàng thứ 37 trên thế giới, ngang hàng với Serbia một nước nghèo ở Đông Âu. Mặc dù ngân sách y tế Mỹ, chi phí cho đầu người dân ở Mỹ cũng cao nhất thế giới nhưng nước Mỹ vẫn chưa bảo đảm được cho toàn thể dân chúng một điều cơ bản của một xã hội văn minh là “bảo đảm y tế toàn diện“ (universal coverage).
Trong bài thuyết trình GS. Baker cho biết hiện nay trung bình một gia đình trung lưu với 4 người (1 cặp vợ chồng và 2 người con) phải chi khoảng 16,771 USD để mua bảo hiểm y tế và khoảng 60% do các doanh nghiệp đài thọ từ năm 2005 đến nay thì các chi phí về y tế vẫn trung bình tăng 1,000 USD mỗi năm. Trong số 46 triệu người dân vẫn chưa có bảo hiểm y tế thì mỗi khi bị mắc phải một tai biến họ có thể bị khánh kiệt dễ dàng, chưa kể những khó khăn khi tìm kiếm một bác sĩ gia đình và những phí tổn bất ngờ ví dụ như phải đi khám một trường hợp cấp cứu mà chi phí có thể lên tới cả ngàn USD...Một thống kê của đài ABC cho biết là 70% dân chúng Mỹ không tin tưởng vào Chương trình cải tổ y tế của Tổng thống Obama. Một trong số những lý do lo ngại là tiền ngân sách mà chính quyền Obama đưa ra nhằm hỗ trợ cho chương trình chăm sóc y tế Medicare (dành cho những người từ 65 tuổi lên) bị cắt giảm... Điều này liên quan đến lợi ích của rất nhiều công dân lớn tuổi tại Mỹ.
Ngoài ra GS. Baker còn đề cập đến nhiều khía cạnh như việc cố gắng mua lại nhiều bệnh viện của các nhà đầu tư tại Mỹ nhằm tận dụng được 50% chi phí hỗ trợ y tế mà Chính quyền Liên bang hỗ trợ cho các các bang tại Mỹ để trả cho những người tham gia bảo hiểm y tế. Đây là khoản lợi nhuận khổng lồ mà các nhà đầu tư đã tìm qua chính sách hỗ trợ y tế của Hoa Kỳ hiện nay. Tuy nhiên các chính sách mà chính quyền Obama đang thực hiện cũng tạo ra nhiều hệ luỵ không đáng có như: Việc các bác sĩ mở ra nhiều phòng khám tư để thu hút bệnh nhân đến khám cũng khiến cho các bệnh viện công tại Mỹ thất thu khá nhiều, bởi lẽ chính sách đó đã có một kẽ hở mà hầu hết các bác sĩ đều tận dụng đó là: Bệnh viện có phòng cấp cứu sẽ không thu phí thậm chí ngay cả đối với bệnh nhân không có bảo hiểm, và vì vậy các bác sĩ thành lập các phòng khám tư không có phòng cấp cứu, và khi có bệnh nhân đến khám bệnh tại các bệnh viện, bác sĩ sẽ tìm cách lôi kéo họ đến khám tại các phòng khám tư để kiếm lợi nhuận và để lại cho bệnh viện các bệnh nhân không có khả năng chi trả viện phí hoặc là các bệnh nhân tham gia bảo hiểm. Điều này đã làm cho các nhà quản lý tại các bệnh viện tại Mỹ gửi rất nhiều khiếu nại đến với chính quyền Obama hòng tìm kiếm một giải pháp phù hợp. Tuy nhiên đến nay thì chính quyền Obama vẫn chưa tìm ra được giải pháp nào khả dĩ...
Kết thúc bài thuyết trình GS. Baker cũng bày tỏ ý kiến bản thân ông và nhiều người dân Hoa Kỳ đều hy vọng là trong thời gian ngắn nữa những chính sách về y tế hiện tại sẽ được cải cách và Chính quyền của Tổng thống Obama sẽ lập ra một chương trình bảo hiểm cho tất cả mọi người và các hãng bảo hiểm tư cũng sẽ phải hạ lệ phí y tế cho người dân để họ được hưởng mọi lợi ích về y tế tốt nhất thế giới do chính quyền Obama mang lại.